Vào cuối thế kỷ XVII, tại làng Bình Lãng, thuộc huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, có một người con gái họ Nguyễn. Thuở nhỏ, cô có tên là Thuyết, khi trưởng thành, đổi tên là Trị. Mẹ là Nguyễn Thị Xướng, hai mẹ con nương tựa vào nhau sống trong một ngôi nhà nhỏ. Là phận gái, sống trong cảnh bần hàn từ nhỏ, hàng ngày chăm chỉ làm lụng, chăm sóc mẹ già, luôn luôn suy nghĩ làm thế nào cho mẹ con sống trong cảnh nghèo mà vẫn vui. Dân làng khen ngợi là người con gái chí hiếu. Năm ngoài hai mươi tuổi, Bà gặp một người con trai họ Sái, tên là Đắc Lộc, quê xã An Ấp, huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh). Hai người kết duyên chồng vợ. Vợ chồng tâm đầu ý hợp, chọn nghề xay giã, buôn bán lúa gạo để lập nghiệp nên được gọi là Bà Bổi Lạng. Năm Quý Mùi (1703), thóc như ngọc quý, Bà lấy của tích lũy được mua ruộng ở các nơi. Chẳng bao lâu Bà trở thành người giàu có nhất vùng. Ruộng có nghìn mẫu, tiền có trên vạn xâu, thóc lúa, gia súc nhiều không đếm xuể. Bà lại là người nhân đức, có nhiều con nuôi, thấy nơi nào khó khăn cũng công đức. Bà bỏ tiền làm đường, cầu đá cho dân quanh vùng… Khi về già, Bà cũng công đức rất nhiều ruộng đất cho các xã quanh vùng. Bà mất ngày 27-9-1721, năm Tân Sửu.
(Toàn cảnh khu Lăng mộ Bà Bổi Lạng nhìn từ xa)
Về cuộc đời Bà Bổi Lạng đến nay, xung quanh còn nhiều câu chuyện ly kỳ lưu truyền trong dân gian. Riêng chuyện Bà trở nên giàu có đã có nhiều dị bản. Có dị bản kể rằng: Thuở hàn vi, Bổi Lạng hằng ngày thường ra sông mò cua, mò hến bán. Một buổi chiều, trong lúc mò hến, Bà mò được nhiều vàng bạc, châu báu. Bà mang về nhà cất lấy vốn làm ăn. Những người có niềm tin vô hạn vào Trời, Phật thì lại kể rằng: Bổi Lạng thuở nhỏ, nhà nghèo nhưng chịu khó làm ăn và thương người nghèo khổ. Bà lại biết cách làm cho mẹ vui và tin vào tương lai giàu có của mình. Tâm đức của Bà thấu đến Trời, Phật. Vào một năm mất mùa, dân làng đói lắm, Bà con bao nhiêu thóc gạo dự trữ đem đổi hết cho dân nghèo, chỉ lấy lại những đấu sỏi. Mọi người lấy làm lạ, rất lo cho tương lai của Bà. Người ta cầu Trời khấn Phật, mong cho Bà trở thành người giàu có để giúp đỡ người nghèo. Lời cầu nguyện thật ứng nghiệm, những đấu sỏi Bà nhận của người nghèo đều biến thành vàng và ngọc, thế là Bà trở thành một người giàu có. Từ tài sản trời cho này, Bà chịu khó làm ăn buôn bán mà trở thành người giàu có nhất nhì đất nước, đến vua chúa đương thời cũng phải nể phục.
Những người vốn xuất thân nghèo khó, chuyên mò cua bắt ốc sống qua ngày thì cho rằng: Bổi Lạng thuở nhỏ rất nghèo khổ, nhưng chịu khó làm ăn, vui vẻ và tự tin, hàng ngày chuyên mò hến bắt ốc, bán ở chợ làng để nuôi mẹ. Một hôm, vào buổi chiều tối, Bà mò ở một đoạn sông gần làng được tới một thúng hến, con nào cũng to, vỏ hanh hanh vàng, Bà thích quá, cho vào chậu, đổ nước ngâm, chờ sáng mai đi chợ sớm. Mờ sáng hôm sau, thức dậy, Bà đổ hến vào thúng đi chợ, thì lạ thật, không còn tin vào mắt mình nữa, tất cả những con hến tối qua, sáng nay đều thành những thỏi vàng rực rỡ dưới nắng mai. Một thúng vàng thì nhiều lắm, xưa nay vùng này chưa ai có thế bao giờ. Bà trở nên giàu có nổi tiếng một vùng.
Những người có chút ít kiến thức lịch sử thì lại kể rằng: Bổi Lạng vốn là một người nghèo khó nhưng chăm chỉ làm ăn, mọi việc đều kín đáo, khôn ngoan. Hàng ngày Bà thường ra đoạn sông Thái Bình gần làng, mò hến khi thủy triều xuống. Một hôm vào chiều tà của tháng ba, triều xuống rặc, bãi sông tiến ra xa. Theo mép nước, Bà mải mê mò hến thì đột nhiên nhặt được một thỏi vàng, càng mò càng tìm được nhiều báu vật. Bà lẳng lặng mang về nhà. Đó là nguồn vốn vô cùng lớn để Bà làm ăn buôn bán sau này.
Không chỉ giàu có, Bà còn nổi tiếng với lòng từ thiện, giúp đỡ người nghèo. Phía trước nhà Bà có nhánh sông, muốn giúp đỡ kẻ khó, Bà bảo họ ra đó mò cua, bắt hến bán cho Bà. Khi ốc hến cạn kiệt, họ mò cả sỏi về bán, song Bà vẫn mua. Người ta đồn Bà Bổi nhìn sỏi ra vàng. Từ đó khúc sông được gọi là sông Vàng. Một lần qua bến Vạn thuộc làng La Tỉnh, thấy cây cầu đã đổ nát, người qua sông phải lội, Bà liền cho đóng hai con thuyền, lại sai Phạm Cân và Đỗ Văn Ha là người bản xã lái đò miễn phí cho dân. Bà còn cho mỗi người 5 mẫu ruộng để lấy lộc điền sinh sống. Bà còn bỏ tiền công đức bắc trên 30 cây cầu đá cho dân trong vùng.
Những việc từ thiện của Bà Bổi Lạng truyền tụng đến tai chúa Trịnh Sâm. Để tìm hiểu thực hư, chúa đã dẫn quan quân đi đường thủy về Bình Lãng. Đến đoạn sông quê Bà thấy bụi bay mù mịt, hoa tiêu báo rằng, bụi bay là do nhân dân làng Bình Lãng đang xay giã gạo. Bà Bổi Lạng thấy mình chỉ là kẻ giàu có ở chốn thôn dã mà được chúa đến thăm bèn xin phép khao quân sĩ 3 ngày để tỏ lòng biết ơn. Được chúa đồng ý, Bà liền sai gia nhân làm trên trăm mâm cỗ thịnh soạn và dặn trước, quan quân ăn xong không phải rửa bát đĩa, có thể đập mua vui. Suốt 3 ngày tiệc tùng linh đình như thế, nhà chúa bái phục phong cho Bà “Phú gia địch quốc” (người giàu có nhất thiên hạ) hay “Thạc nhân” (người đàn Bà vĩ đại). Từ “Thạc nhân” được khắc trên lăng mộ của Bà. Cũng từ đó trong dân gian lưu truyền câu ca để nói lên sự giàu có của Bà:
“Thứ nhất cô Đỏ Thanh Hoa,
Thứ nhì Bổi Lạng,
Thứ ba Thạch Sùng".
Sự giàu có của Bà còn được chép trong sử sách. Trong Kiến văn tiểu lục, đánh giá về các doanh nhân vào cuối thế kỷ XVII ở đồng bằng sông Hồng, Lê Quý Đôn viết: “Năm thứ 20, niên hiệu Chính Hòa (1699) ở nước ta có những người như Huyện Lân ở Thiên Bản, Công Trung ở Thanh Quan, Bà Bổi Lạng ở Bình Lãng, Tứ Kỳ…vàng, bạc tiền, thóc kể có ức vạn, đất nhiều ruộng tốt khắp một địa phương".
Cùng với những câu chuyện được ghi chép trong sử sách, lưu truyền trong dân gian thì tại Bình Lãng vẫn còn khu lăng mộ của Bà Bổi Lạng. Khu lăng mộ nằm trên một gò đất khá bằng phẳng ở cánh đồng thôn Đông Phong, hai bên có hai cây Bàng. Trong khuôn viên Lăng có đôi nghê đá ngồi chầu, được chạm khắc tinh xảo. Phía sau là một sập đá lớn có kích thước khoảng 2 m x 1,5 m. Sau sập đá là lăng đá 2 tầng 8 mái được ghép bằng các phiến đá xanh, chiều cao và chiều dài đều trên 2 m. Phần lăng được tạo tác công phu, chạm các ô hộc, chữ Vạn, tản vân. Bên trên tầng 2 là mái úp chạm hoa sen. Công trình toát lên sự cổ kính, độc đáo, gần như còn nguyên vẹn hình dáng nguyên sơ ngoại trừ một vài phần bị hư hại. Bên trái lăng là bia đá hình tứ trụ có niên đại Vĩnh Thịnh thập lục niên (1720) cao gần 2 m, rộng trên 0,6 m trên có chữ Nho ghi về cuộc đời của nữ doanh nhân Bổi Lạng, bản phân chia tài sản cho các con nuôi, công đức ruộng cho các làng, xã để lo việc thờ cúng cho gia đình mình. Bia đá này do Thám hoa Nguyễn Quý Đức, một tri thức nối tiếng đương thời, người làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm soạn.
(Lăng chính)
(Sập đá và Nghê đá trong khuôn viên Lăng)
(Lăng bia ghi danh sách Bà công đức cho các địa phương)
Cùng với khu lăng mộ, về Tứ Kỳ còn rất nhiều cây cầu đá mà ngày nay người dân vẫn gọi là cầu đá Bà Bổi. Bà Bổi Lạng đã công đức xây dựng cho nhân dân trong vùng 36 cây cầu đá. Trên mỗi cây cầu này đều có chạm một Bàn chân. Theo thống kê, hiện nay huyện Tứ Kỳ còn lại 18 cầu đá, bia ký bắc cầu đã thất lạc chỉ còn lại những câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Trong đó có cầu đá Mốt tại thôn Mũ, xã Phượng Kỳ, bắc trên đồng làng ra chùa Khánh Linh được nhân dân gọi là cầu Bà Bổi, tại làng Vực xã Tứ Xuyên (cũ)... Cùng với hệ thống cầu đá, hiện nay bến đò Vạn, nơi Bà đóng đò chở miễn phí cho dân qua lại vẫn là nơi thuyền bè neo đậu.
Ngày 07/01/2016 UBND Tỉnh hải Dương đã có Quyết định công nhận khu Lăng mộ Bà Bổi Lạng là Di tích lịch sử cấp Tỉnh. Để bảo vệ và phát huy giá trị của di tích, hiện nay UBND xã Bình Lãng đã quy hoạch diện tích đất là 1,1h.a xung quanh khu Lăng mộ để phục vụ việc bảo tồn, phát triển và phát huy giá trị lịch sử cũng như việc phát triển khu Lăng mộ Bà Bổi Lạng thành khu du lịch tâm linh của xã.